Thứ tư, 30/04/2025 - 05:00
Sau 50 năm Bắc-Nam sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất và nền hòa bình cùng sự ổn định chính trị đã đưa Việt Nam đến vị thế mới rất vững chắc trong thế giới hiện đại đầy biến động.
Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh bản hùng ca chiến thắng ngân vang, bài học về tinh thần độc lập, tự chủ lại hiện về, nóng hổi và đầy ắp tính thời sự trong thế giới phẳng hôm nay.
Lâu nay, nền độc lập, tự chủ và tự do vững chắc mà Việt Nam xây bằng máu xương bao thế hệ vốn là niềm mong ước, khát vọng của nhiều dân tộc trên thế giới đang luẩn quẩn ở vũng lầy xung đột và chiến tranh lại bị một số kẻ phê phán, “tạt a xít”. Chúng không chấp nhận sự thật: Việt Nam ổn định, phát triển cường thịnh.
![]() |
Bất chấp con đường hợp đạo lý, hợp lòng người, hợp xu thế thời đại và tương lai tươi sáng đang rộng mở của dân tộc, chúng định hướng, lôi kéo những kẻ bất mãn, phản động đòi phá bỏ những thành tựu ấy để xây dựng một thể chế chính trị mới với cái gọi là “tự do” và “dân chủ” tuyệt đối mà chúng hằng tôn thờ. Hình như bài học lịch sử chưa đủ mạnh để chúng tỉnh ngộ, bớt ảo tưởng.
***
Đầu năm 1975, sau khi Phước Long thất thủ, cho dù “mũi dao bén ngọt” của Quân giải phóng đã chọc vào cạnh sườn nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn luôn lạc quan với lời hứa chắc như đinh đóng cột từ năm 1973 của Tổng thống Nixon: “Nếu Bắc Việt vi phạm, Mỹ sẽ đáp trả”. Viễn cảnh mà Thiệu mơ tưởng là quan thầy Mỹ sẽ đưa quân và chi viện hỏa lực đường không, đường biển hoặc chí ít là viện trợ ngân sách hơn 2,1 tỷ USD để Thiệu có thể giữ vững cái gọi là nền cộng hòa vốn cho Thiệu và gia đình cùng đội ngũ tướng lĩnh những “hoa thơm trái ngọt” béo bở.
Theo những tài liệu đã được Nhà trắng giải mã những năm gần đây, sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, Thiệu đã đưa ra một quyết định mà không tham vấn bất cứ nhân vật hoặc cơ quan nào của quan thầy Mỹ: Bỏ Cao nguyên Trung phần về giữ các tỉnh ven biển miền Trung từ Huế trở vào Nam. Bởi Thiệu luôn tin và nuôi ảo tưởng, dù viện trợ quân sự bị cắt giảm nghiêm trọng xuống còn hơn 700 triệu USD thì Thiệu vẫn đủ lực để giữ những phần đất "ngon" nhất. Thiệu tin, với đội quân trung thành, hùng mạnh trong tay vẫn có thể giữ được những vùng quan trọng để “chờ cơ hội”.
Nhưng trời không chiều lòng Thiệu, đội hình rút lui trên Đường 7B của ngụy đã bị Quân giải phóng truy kích. Từ đây, thời cơ có lợi cho quân ta xuất hiện rõ như ban ngày, còn lực lượng mang những cái tên mỹ miều như biệt động quân, thủy quân lục chiến, biệt động dù... vốn rất thiện chiến của Thiệu và từng được quan thầy Mỹ huấn luyện công phu, được trang bị đến tận răng đã trở thành những chú hề, thành thỏ đế trước sức mạnh vũ bão của Quân giải phóng. Hiệu ứng đô-mi-nô đã đẩy quân ngụy vào cảnh “cá nằm trên thớt”, khiến niềm tự hào với "thế giới tự do" lâu nay Mỹ từng huênh hoang bị sụp đổ nhanh chóng không hồi cứu vãn. Những bộ quân phục, những khẩu súng rồi xe tăng, trực thăng vũ trang... vốn là biểu trưng cho sự giàu có và sức mạnh của tự do bị bỏ lại phi trường, bến cảng và trên xa lộ đã chứng minh điều đó.
Nửa đầu tháng 4-1975, khi Quân giải phóng vượt qua phòng tuyến Phan Rang, áp sát phòng tuyến tử thủ thép Xuân Lộc, cho dù những “mũi dao thép” đã lởn vởn ngay sát nách đô thành Sài Gòn thì Thiệu vẫn ngoan cố kêu gào binh sĩ tử thủ và đọc diễn văn phủ dụ dân chúng tin vào chính phủ và đội quân mà Thiệu cố công xây dựng.
Cạnh đó, với niềm tin mãnh liệt vào đồng minh nước lớn thân cận và thói sĩ diện hão, Thiệu ra sức điện đàn với quan chức Nhà trắng để tìm sự hỗ trợ. Nhưng dù khản cổ kêu gào thì Thiệu vẫn chỉ nhận được ở quan thầy những cái lắc đầu và kế hoạch di tản trong bí mật. Thiệu ngoan cố bám dinh Độc Lập, bám chặt chiếc ghế tổng thống cho dù bị tướng nguyền, dân oán và đồng minh rời bỏ. Từ các vùng chiến sự, sĩ quan của Thiệu gọi về với những lời chua chát: “Tổng thống ra lệnh nhưng không ra mặt. Lính chết, bỏ chạy, còn ông thì... chờ viện trợ”.
Sau khi Quân giải phóng làm chủ nhiều đô thị, vùng giải phóng mở rộng, diện tích của ngụy ngày càng thu hẹp, sau năm lần bảy lượt bị quan thầy Mỹ khuyên nhủ, dụ ép, đe dọa và đánh tiếng cảnh báo sẽ có cuộc đảo chính như năm 1963 nếu không nhường ghế, cuối cùng, Thiệu chấp nhận buông bỏ quyền lực bằng một bài diễn văn hôm 21-4-1975 với lời chua chát, uất hận rằng: “Hoa Kỳ đã phản bội chúng ta...”. Và trong đêm tối ở phi trường Tân Sơn Nhất, Thiệu ra đi không kèn, không trống với nỗi lo mất mạng thường trực. Thiệu được Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cho di tản bằng lý do sang Đài Loan viếng Tưởng Giới Thạch.
Cùng thời điểm đó, từ các thông tin tình báo và những bộ óc phân tích chiến lược toàn diện sắc bén, khi chắc chắn “Hoa Kỳ không có khả năng trở lại”, với tinh thần chủ động, Đảng ta đã nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên chiến trường, quân ta càng đánh càng mạnh và đã giành những thắng lợi liên tiếp. Chiến dịch Hồ Chí Minh mở ra quá nhanh chóng khiến quan thầy Mỹ phải cay đắng chấp nhận thực hiện chiến dịch “gió lốc”, di tản khỏi miền Nam Việt Nam.
Trưa 30-4-1975, khi màu áo “sắc xanh núi rừng” tràn ngập dinh Độc Lập, khi cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay, đặc biệt sau lời đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh trên Đài phát thanh Sài Gòn, “thế giới tự do” giả hiệu sụp đổ hoàn toàn. Lúc này, vai trò “con tốt” của ngụy quyền Sài Gòn trên bàn cờ địa chính trị do quan thầy Mỹ dựng lên chính thức ra đi.
Bài học từ sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn không chỉ là sự thất bại của một bộ máy sống nhờ, tồn tại bằng ngoại lực mà còn là minh chứng sống động cho chân lý: Chỉ có độc lập dân tộc, tự chủ về chính trị và tinh thần đoàn kết toàn dân mới tạo nên sức mạnh trường tồn. Trong bối cảnh thế giới hiện đại đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn địa chính trị, cạnh tranh chiến lược và những cuộc xung đột, Việt Nam-một quốc gia nhỏ vẫn giữ vững hòa bình, ổn định và phát triển là nhờ bài học lịch sử ấy.
Thế nên, việc những kẻ ảo tưởng vào một "thiên đường tự do" viển vông do ngoại bang vẽ ra, tiếp tục cổ xúy, lôi kéo phá vỡ trật tự hiện tại cần nhìn lại số phận của những kẻ đi trước và hãy nhớ rằng: Những “tướng không quân, lính không trận” lưu vong và trái tim rách nát cùng vết thương quá khứ thì sao có thể mang gánh được ước vọng xa xôi. Hãy tỉnh táo mà nhận thức đầy đủ rằng, tự do và dân chủ không bao giờ đến từ những khẩu hiệu trống rỗng, càng không thể được ban phát từ ngoại bang. Nó phải là kết quả của một quá trình đấu tranh tự lực, từ nhân dân, vì nhân dân.
Ngày nay, khi thế giới tiếp tục chứng kiến những cuộc xung đột, chiến tranh ở nhiều khu vực, sự phụ thuộc chính trị, kinh tế khiến nhiều quốc gia nhỏ bị cuốn vào vòng xoáy bất ổn, thì bài học về tự chủ của Việt Nam càng trở nên quý giá.
Giữa lúc thế giới vẫn còn những mô hình “dân chủ xuất khẩu” đầy rối ren, sự vững vàng của Việt Nam chính là minh chứng cho một con đường độc lập-vì dân, từ dân và do dân-không thể bị thay thế bởi bất kỳ ảo tưởng nào đến từ bên ngoài.
Từ chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã chứng minh, lịch sử không dành chỗ cho những ảo tưởng chính trị lạc lõng. Nó chỉ ghi nhớ và tôn vinh những dân tộc dám tự mình viết nên vận mệnh của chính mình mà thôi. Hãy đừng quên bài học ấy!
MẠNH THẮNG
50 năm sau đại thắng mùa Xuân 1975, lịch sử đã chứng minh một chân lý vững bền: chỉ có độc lập dân tộc, tự chủ chính trị và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc mới là nền tảng để xây dựng một đất nước hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Bài viết là hồi chuông cảnh tỉnh đối với những kẻ vẫn còn mơ hồ, hoài niệm một “thiên đường giả hiệu” do ngoại bang tô vẽ. Qua từng chi tiết lịch sử được trình bày rõ ràng, bài viết không chỉ khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà còn bóc trần sự ảo tưởng, sai lầm và sự lệ thuộc bi thảm của chính quyền Sài Gòn – một chính thể sinh ra, tồn tại và chết đi trên bàn tay điều khiển của Mỹ.
Trả lờiXóaCâu chuyện về Nguyễn Văn Thiệu – từ khi ôm ảo vọng “quan thầy sẽ quay lại” đến lúc phải rời bỏ chiếc ghế tổng thống trong uất nghẹn – là bài học nhãn tiền về sự thất bại tất yếu của những kẻ không dám đặt niềm tin vào nhân dân mình. Và chính sự tự lực, bản lĩnh, niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam mới là yếu tố quyết định thắng lợi lịch sử ấy. Không phải Mỹ, không phải Liên Xô, không phải bất kỳ cường quốc nào mà chính là ý chí của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã viết nên trang sử vĩ đại ấy.
Ngày nay, khi thế giới tiếp tục chứng kiến những quốc gia bị kéo vào khủng hoảng vì phụ thuộc vào các mô hình “dân chủ ngoại nhập”, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng của sự ổn định và phát triển. Những thành tựu kinh tế, đối ngoại, xã hội mà đất nước ta đạt được chính là “lời tuyên ngôn” hùng hồn, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc từ các thế lực thù địch, từ những kẻ hoài nghi hoặc cố tình phủ nhận con đường đúng đắn mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
Bài viết không chỉ là bản tường thuật sinh động và sắc sảo về những ngày cuối cùng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn mà còn là lời khẳng định sâu sắc về giá trị bền vững của độc lập, tự chủ mà dân tộc Việt Nam đã kiên cường giành lấy. Trong một thế giới đầy biến động hôm nay, những bài học từ lịch sử không bao giờ là cũ – đặc biệt là bài học về sự sụp đổ của một chính quyền sống nhờ vào bàn tay ngoại bang, thiếu tính chính danh, không có cội rễ trong lòng nhân dân.
Trả lờiXóaTừng trang sử được lật lại một cách cẩn trọng, từng chi tiết – từ “ảo vọng viện trợ” của Thiệu đến cuộc tháo chạy nhục nhã của chính quyền Mỹ và bè lũ tay sai – là những hồi chuông thức tỉnh cho bất kỳ ai còn mang trong mình thứ tư duy lệ thuộc, vọng ngoại. Hình ảnh quân đội ngụy bỏ lại vũ khí, tháo chạy tán loạn khi Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn là minh chứng rõ rệt nhất rằng: Không có vũ khí nào mạnh bằng lòng dân, không có “quân sự hóa” nào thắng được chính nghĩa và lòng yêu nước sắt son.
Nhìn lại hiện thực, sự vững vàng của Việt Nam giữa một thế giới đầy khủng hoảng chính là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi nhiều nước đang loay hoay với khủng hoảng chính trị, chia rẽ dân tộc, bất ổn kinh tế thì Việt Nam vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền và từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Những luận điệu “dân chủ tuyệt đối”, “tự do kiểu phương Tây” chỉ là chiêu bài ru ngủ của những kẻ muốn quay lại lịch sử đen tối mà dân tộc ta đã trả giá đắt để vượt qua. Chúng ta không cần một “thiên đường giả tạo” mà cần một Tổ quốc vững vàng – như hiện tại này.
Bài viết là một “bản cáo trạng lịch sử” đầy tính giáo dục và cảnh tỉnh, không chỉ phơi bày sự sụp đổ thảm hại của chế độ ngụy quyền Sài Gòn, mà còn khẳng định giá trị to lớn, bền vững của nền độc lập dân tộc do chính nhân dân ta kiến tạo nên. Sau 50 năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã trở thành một quốc gia ổn định, phát triển, hội nhập sâu rộng và ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế – điều mà không ít nước trên thế giới phải ngưỡng mộ. Trong bối cảnh đó, việc các thế lực thù địch tiếp tục reo rắc hoài nghi, cổ vũ tư tưởng chống đối và phục quốc là điều không thể chấp nhận.
Trả lờiXóaLịch sử là tấm gương phản chiếu chân thực nhất. Những gì đã xảy ra vào mùa Xuân 1975 là câu trả lời đanh thép cho bất kỳ ai còn nuôi giấc mơ “tái lập” một chế độ tay sai, lệ thuộc, phản bội dân tộc. Hãy nhìn vào bài học của Nguyễn Văn Thiệu – người từng đứng đầu một chính quyền với đầy đủ vũ khí, quân lực, sự hậu thuẫn của cường quốc bậc nhất – nhưng cuối cùng vẫn phải ra đi lặng lẽ trong đêm tối, bị chính “quan thầy” bỏ rơi không thương tiếc. Đó không chỉ là kết cục của một cá nhân, mà là hệ quả tất yếu của cả một tư tưởng nô lệ, phục tùng và phi dân tộc.
Ngày nay, khi thế giới vẫn đang vật lộn trong những cuộc chiến giành ảnh hưởng, trong sự bất ổn về thể chế, thì Việt Nam – một đất nước nhỏ – lại đứng vững như một biểu tượng về bản lĩnh và trí tuệ. Không vì được “ban phát dân chủ” mà vững mạnh, mà nhờ tự lực, nhờ nhân dân, nhờ tinh thần độc lập mà trở thành một quốc gia đáng tin cậy, có trách nhiệm. Đó là con đường đúng đắn mà bài học của 30-4-1975 đã chỉ ra – và là thông điệp mà bất kỳ người Việt Nam yêu nước chân chính nào cũng cần khắc cốt ghi tâm.