Ngày: Tháng Ba 9, 2025
Nguyễn Văn
Gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều quan điểm tranh luận về mối quan hệ giữa độc lập và tự do. Trong bài viết “Luận bàn về độc lập, tự do” trên trang Facebook của mình, ngày 16/02/2025, ông Nguyễn Đình Cống đưa ra một số ý kiến gây tranh cãi. Đó là:
1/ “Tự do gắn chặt với nhân quyền mà tất cả mọi người đều cần đến, đặc biệt là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận cho những người lao động trí óc”.
2/ Trong gần một thế kỷ qua tuyên truyền một chiều đã cố tình gắn chặt độc lập, tự do với lòng yêu nước để lợi dụng. Kháng chiến ở Việt Nam trong thế kỷ XX mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước là trước mắt, còn lâu dài là để viết Điều 4 Hiến pháp…
3/ Việc gắn Tự do với Độc lập thành một danh ngôn là một thành công của người rất thông minh, dùng hình bóng của từ Độc Lập để làm lu mờ bản chất của Tự Do. Tuyên truyền một chiều đã dựng ông thành lãnh tụ thiên tài nên mọi người cứ tin chắc lời ông nói ra là chân lý, cứ nhắc lại y nguyên mà ít chịu suy nghĩ và phản biện.
Những quan điểm trên chủ yếu dựa trên góc nhìn cá nhân, chưa xét đến đầy đủ bối cảnh lịch sử và thực tế khách quan. Bài viết này lần lượt phê phán, bác bỏ từng ý nêu trên.
1. Cần khẳng định là tự do gắn liền với độc lập, chứ không phải là hai khái niệm tách biệt. Trong quá trình lịch sử, các dân tộc thuộc địa và bị đô hộ không thể hưởng quyền tự do một cách trọn vẹn khi quốc gia họ chưa giành được độc lập. Quyền tự do chỉ thực sự được đảm bảo khi quốc gia và dân tộc được tự quyết định vận mệnh của mình. Do đó, tự do không chỉ gắn với nhân quyền cá nhân mà còn phụ thuộc vào độc lập quốc gia.
Việc gắn độc lập và tự do không phải là một thủ đoạn tuyên truyền, mà được chứng minh qua lịch sử thực tế. Những nước mất độc lập thường xuyên chịu kiểm duyệt, đàn áp tư tưởng từ các thế lực bên ngoài. Ngay trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn thuộc địa đã chứng minh rằng, khi bị thống trị bằng ngoại bang, quyền tự do của người dân Việt Nam bị xâm phạm nghiêm trọng. Chẳng thế mà, trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác của kẻ thù: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”[1].
2. Việc quy kết cuộc kháng chiến chỉ nhằm để viết Điều 4 Hiến pháp là một nhận định mang tính suy diễn phiến diện và bóp méo lịch sử. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ không phải là một thủ đoạn chính trị mà là một phong trào đấu tranh vì chủ quyền dân tộc và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh rằng các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của Việt Nam luôn xuất phát từ khát vọng giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nếu chỉ để thiết lập một cơ chế chính trị, thì không thể có sự hy sinh của hàng triệu người dân Việt Nam trong các cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Sự hy sinh này không thể bị quy giản thành một công cụ để phục vụ một điều khoản của hiến pháp.
Ngoài ra, việc gắn độc lập với lòng yêu nước không phải là một sự lợi dụng mà là một thực tế hiển nhiên. Trên thế giới, các quốc gia từng bị đô hộ đều đấu tranh giành độc lập với tinh thần yêu nước mãnh liệt. Độc lập không chỉ là một vấn đề chính trị mà còn là quyền cơ bản để bảo vệ văn hóa, bản sắc và quyền lợi của người dân.
3. Ông Nguyễn Đình Cống cho rằng Hồ Chí Minh dùng danh nghĩa độc lập để làm lu mờ tự do, đồng thời được tuyên truyền như một lãnh tụ thiên tài để khiến người dân tin tưởng vô điều kiện là quan điểm hoàn toàn sai lệch.
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ giải phóng dân tộc mà còn là người luôn nhấn mạnh vai trò của tự do, dân chủ. Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Người đã trích dẫn tư tưởng về quyền con người từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, đi đến khẳng định một chân lý mới của thời đại là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[2]. Qua đó khẳng định rằng độc lập dân tộc phải đi đôi với các quyền tự do cơ bản.
Thực tế, các chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hướng đến việc bảo đảm quyền dân chủ, như phổ thông đầu phiếu, tự do báo chí, quyền lập hội. Việc cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh “dùng độc lập để lu mờ tự do” là cách hiểu lệch lạc, không phản ánh đầy đủ thực tế lịch sử.
Như vậy, những quan điểm của ông Nguyễn Đình Cống trong bài viết “Luận bàn về độc lập, tự do” mang tính quy chụp phiến diện và bỏ qua những bối cảnh lịch sử quan trọng. Độc lập và tự do là hai khái niệm gắn kết chặt chẽ, và không thể có tự do thực sự khi quốc gia vẫn còn lệ thuộc hoặc bị chi phối bởi ngoại bang. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, mối quan hệ giữa độc lập và tự do vẫn là một vấn đề quan trọng. Nhiều quốc gia đang phải đối mặt với áp lực từ bên ngoài và thách thức nội bộ trong việc bảo vệ cả chủ quyền lẫn các quyền tự do của công dân. Vì vậy, việc hiểu đúng về mối quan hệ giữa độc lập và tự do là điều cần thiết để tránh những nhận định phiến diện và sai lệch. Và việc ông Nguyễn Đình Cống phê phán Hồ Chí Minh là không có cơ sở, vì chính Người đã đặt nền móng cho một nhà nước độc lập và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam.
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr.2.
[2]. Sđd, Tập 4, tr. 1.
Bài viết đã đưa ra một lập luận chặt chẽ để bác bỏ các quan điểm sai lệch về mối quan hệ giữa độc lập và tự do. Một trong những điểm quan trọng được nhấn mạnh là: không thể có tự do thực sự khi một quốc gia chưa giành được độc lập. Lịch sử đã chứng minh điều này khi các nước bị đô hộ luôn chịu sự kiểm soát gắt gao, mất đi quyền tự quyết và người dân không thể thực hiện đầy đủ các quyền tự do của mình. Việc tách rời hai khái niệm này chẳng khác nào phủ nhận thực tế khách quan mà bao thế hệ cha ông đã đấu tranh để giành lại.
Trả lờiXóaNgoài ra, quan điểm cho rằng cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chỉ nhằm mục đích thiết lập một thể chế chính trị là hoàn toàn bóp méo lịch sử. Nếu không có tinh thần yêu nước, không có khát vọng độc lập cháy bỏng của nhân dân, không có sự hy sinh của hàng triệu người, thì làm sao có một đất nước Việt Nam thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ như hôm nay? Bài viết đã làm rõ rằng kháng chiến không phải là một "công cụ chính trị" mà là một cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc.
Đặc biệt, việc xuyên tạc hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một sự suy diễn vô căn cứ. Hồ Chí Minh không chỉ là người lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc mà còn luôn đề cao quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Những chính sách của Người ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã khẳng định điều đó. Thực tế lịch sử là minh chứng rõ ràng nhất, không thể vì những luận điệu cá nhân mà làm lu mờ chân lý.
Bài viết đã làm rõ một vấn đề rất quan trọng: độc lập và tự do không phải là hai khái niệm tách biệt, mà có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Lịch sử cho thấy, khi một quốc gia mất đi độc lập, mọi quyền tự do của người dân cũng bị tước đoạt. Minh chứng rõ nét là thời kỳ Việt Nam bị thực dân, đế quốc xâm lược: không có quyền tự do tư tưởng, không có quyền ngôn luận thực sự, thậm chí cả quyền sống cũng bị chà đạp. Vì vậy, không thể có một nền tự do đúng nghĩa khi đất nước chưa tự chủ và toàn vẹn chủ quyền.
Trả lờiXóaĐiểm đáng chú ý trong bài viết là cách lập luận sắc bén khi phản bác quan điểm cho rằng cuộc kháng chiến của dân tộc chỉ nhằm tạo điều kiện cho một điều khoản hiến pháp. Đây là một cách suy diễn mang tính áp đặt và thiếu cơ sở lịch sử. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam là một phong trào chính nghĩa, được thúc đẩy bởi khát vọng tự do và quyền tự quyết của cả dân tộc. Hàng triệu người đã hy sinh không phải vì một điều khoản chính trị, mà vì một đất nước không còn bị đô hộ, nơi mọi người có thể tự do làm chủ vận mệnh của mình.
Ngoài ra, bài viết cũng bác bỏ luận điệu xuyên tạc hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự thật là Người không chỉ lãnh đạo công cuộc giành độc lập mà còn đặt nền móng cho việc bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Những chính sách như phổ thông đầu phiếu, quyền lập hội, tự do báo chí… ngay từ những ngày đầu thành lập nước là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Do đó, việc cố tình bóp méo sự thật để phủ nhận vai trò của Người là một luận điệu sai trái, không phản ánh đúng bản chất lịch sử.
Bài viết đã cung cấp một góc nhìn toàn diện và có tính phản biện sâu sắc trước những quan điểm sai lệch về mối quan hệ giữa độc lập và tự do. Một trong những điểm quan trọng được nhấn mạnh là: tự do không thể tồn tại bền vững nếu quốc gia không có chủ quyền. Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng, khi một dân tộc mất độc lập, họ sẽ chịu sự kiểm soát, áp đặt và tước đoạt quyền tự do từ các thế lực ngoại bang. Điển hình như trong thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đô hộ, nhân dân không chỉ bị áp bức, bóc lột mà còn bị tước đi những quyền tự do cơ bản nhất. Điều này cho thấy, không thể có tự do thực sự khi một đất nước còn lệ thuộc vào ngoại bang.
Trả lờiXóaBài viết cũng chỉ ra sự phiến diện và suy diễn chủ quan trong nhận định cho rằng cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc chỉ nhằm hợp thức hóa một điều khoản chính trị. Quan điểm này không chỉ bóp méo lịch sử mà còn đi ngược lại thực tế. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam không phải là một chiêu trò chính trị, mà là cuộc đấu tranh chính nghĩa vì độc lập dân tộc và quyền tự quyết. Nếu không có tinh thần yêu nước, không có quyết tâm giành lại độc lập, sẽ không thể có một đất nước tự do, nơi người dân có thể làm chủ vận mệnh của mình như ngày hôm nay.
Bên cạnh đó, bài viết cũng bác bỏ một cách thuyết phục quan điểm sai lệch về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc xuyên tạc hình ảnh của Người là một thủ đoạn nguy hiểm nhằm gây hoài nghi và làm suy giảm niềm tin của nhân dân. Tuy nhiên, sự thật lịch sử không thể bị bóp méo: Hồ Chí Minh không chỉ lãnh đạo công cuộc giành độc lập, mà còn đặt nền tảng vững chắc cho một nhà nước dân chủ, nơi quyền tự do của người dân được tôn trọng. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, các chính sách như phổ thông đầu phiếu, quyền lập hội, tự do báo chí… đã chứng minh điều đó.