Tự do trong khuôn khổ là lẽ tất yếu

 

Ngày: Tháng Ba 17, 2025

Phương Nhi

Ngày 3/3/2025 trên Trang Tiếng Dân New có bài viết của Ngô Anh Tuấn với tiêu đề: “Ta tự do trong thế giới của người khác” bài viết là một nỗi niềm, một cách nghĩ, cách tiếp cận chưa chuẩn xác về quyền tự do trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.

Mở đầu viết: “Đây là sự thật. Nó đau lòng, nhưng đó là sự thật trần trụi. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí chúng ta đều có, thậm chí nó được ghi vào bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta nhưng sự không rõ ràng trong quy định của nó khiến các quyền căn bản ấy của người dân không được thực hiện một cách triệt để. Ranh giới của một người dân có ích, phản biện để đấu tranh phòng ngừa, thậm chí là ngăn chặn cái sai vì một đất nước thái bình, thịnh trị với một kẻ phạm tội tuyên truyền chống nhà nước hay lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân là rất mong manh.”…

Trước hết ta hiểu rằng: Tự do ngôn luận và biểu đạt có một lịch sử lâu đời trước cả các văn kiện nhân quyền quốc tế của ngày nay. Người ta cho rằng nguyên tắc dân chủ của người Athen (Athenian democratic principle) cổ đại về tự do ngôn luận có thể đã xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 6 hoặc đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Các giá trị của nền Cộng hòa La Mã đã bao gồm quyền tương tự đối với tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.

Các khái niệm về tự do ngôn luận cũng có thể được tìm thấy trong các tài liệu nhân quyền từ sớm. Tuyên ngôn về các quyền của con người và công dân (Declaration of the Rights of Man and of the Citizen), được thông qua trong Cuộc cách mạng Pháp năm 1789, đặc biệt khẳng định quyền tự do ngôn luận như một quyền không thể thay đổi. Tuyên ngôn quy định quyền tự do ngôn luận trong Điều 11, trong đó nêu rõ rằng: Quyền tự do trao đổi ý kiến và quan điểm là một trong những điều quý giá nhất về quyền của con người. Mọi công dân có thể, theo đó, có quyền tự do phát biểu, viết và in ấn, nhưng sẽ chịu trách nhiệm về việc lạm dụng quyền tự do này theo luật định.

Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, thông qua năm 1948, tuyên bố: “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.

Ngày nay, tự do ngôn luận, hoặc tự do biểu đạt, được công nhận trong luật nhân quyền của quốc tế và từng khu vực. Quyền này được quy định tại Điều 19 của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, Điều 10 của Công ước châu Âu về Nhân quyền, Điều 13 của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền và Điều 9 của Hiến chương châu Phi về Quyền Con người và Quyền các Dân tộc. Dựa trên lập luận của John Milton tự do ngôn luận được hiểu là một quyền đa diện bao gồm không chỉ quyền biểu đạt, hoặc phổ biến, thông tin và ý kiến, mà còn là ba khía cạnh riêng biệt.

Bài viết có đoạn ai oán: “Đã không biết bao nhiêu năm, ta tự do, ta hạnh phúc trong thế giới của người khác và vẫn đắm chìm trong niềm hân hoan đó mà quên đi cuộc sống hiện tại rằng chúng ta chưa hết day dứt, chưa hết khổ đau; hình như chúng ta chưa bao giờ được hưởng đủ quyền trọn vẹn của một con người. Hình như hay chính xác là vậy, tôi cũng không biết nữa…”

Ở Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Trong đó phải kể đến quyền tự do ngôn luận từ bản Hiến pháp đầu tiên, các văn kiện của Đảng. Các bản Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Để đảm bảo thực hiện quyền tự do ngôn luận trong thực tế cuộc sống và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và ANQG, TTATXH. Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhất là việc tự tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến của mình đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên không gian mạng. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Như vậy theo quy định của Hiến pháp “quyền tự do ngôn luận” của mọi công dân là quyền được tự do trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hoá,  truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng phải tuân thủ quy định chung của Luật An ninh mạng. Điều 8 Luật An ninh mạng quy định những hành vi bị nghiêm cấm như: Phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; thông tin sai sự thật…

Cụ thể hơn, Nghị định 15/2020 đã quy định rõ mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi tung thông tin giả mạo, gây hoang mang dư luận trên mạng xã hội. Điều 101 của Nghị định 15/2020 đã quy định: Phạt tiền từ 10 – 20 triệu đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội…

Bộ Thông tin và Truyền thông trước đây đã ban hành Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội có hiệu lực từ ngày 17/6/2021 cũng ghi nhận quy tắc ứng xử của tổ chức, cá nhân như không đăng tải những nội dung vi phạm pháp luật, các thông tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khác; sử dụng ngôn ngữ phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục; tung tin giả, tin sai sự thật…Như vậy, mọi hành vi tự do ngôn luận nhưng vi phạm điều cấm của pháp luật đã kể trên đều là vi phạm pháp luật. Do đó, mọi người thể hiện quyền tự do ngôn luận nhưng phải tuân thủ giới hạn mà pháp luật quy định, không thể sự dụng quyền này để công kích, xúc phậm đến tổ chức, cá nhân khác. Như vậy, tự do ngôn luận khác với việc tùy tiện vu khống, bôi nhọ, xâm hại đến cá nhân, tổ chức, nên một lần nữa khẳng định tự do trong khuôn khổ là lẽ tất yếu và điều đương nhiên đối với tất cả mọi người./.

3 nhận xét:

  1. Quyền tự do ngôn luận là một quyền quan trọng và được bảo vệ trong nhiều văn kiện pháp lý của Việt Nam, từ Hiến pháp đến các quy định pháp luật cụ thể. Nhưng cũng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, quyền này không phải là tuyệt đối mà phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật để đảm bảo lợi ích chung, giữ gìn an ninh trật tự và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.

    Những quy định trong Luật An ninh mạng, Nghị định 15/2020 hay Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội không phải là sự hạn chế vô lý quyền tự do, mà là cần thiết để ngăn chặn những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai sự thật, gây chia rẽ, kích động hoặc xúc phạm tổ chức, cá nhân. Do đó, quyền tự do không đồng nghĩa với sự tùy tiện mà cần đi liền với trách nhiệm, nhằm xây dựng một không gian thông tin lành mạnh, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội.

    Nhìn rộng ra, vấn đề đặt ra không phải là Việt Nam có hay không quyền tự do ngôn luận, mà là làm thế nào để thực hiện quyền này một cách đúng đắn, có trách nhiệm và phù hợp với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc.

    Trả lờiXóa
  2. Bài viết của Ngô Anh Tuấn thể hiện một góc nhìn cá nhân về tự do ngôn luận, nhưng chưa phản ánh đầy đủ thực tế pháp lý và xã hội tại Việt Nam. Việc tác giả nhấn mạnh sự "mong manh" giữa quyền phản biện và hành vi vi phạm pháp luật là một cách nhìn nhận mang tính cảm tính, chưa làm rõ bản chất của quyền tự do trong khuôn khổ pháp luật.

    Trong mọi quốc gia, quyền tự do ngôn luận luôn đi kèm với trách nhiệm pháp lý. Không có quốc gia nào cho phép tự do ngôn luận một cách tuyệt đối, mà đều có những giới hạn nhất định nhằm bảo vệ lợi ích chung. Như Điều 19 của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị đã nêu rõ, quyền tự do biểu đạt phải chịu những hạn chế nhất định để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng và quyền của người khác.

    Do đó, thay vì nhìn nhận quyền tự do ngôn luận một cách phiến diện và đối lập với các quy định của pháp luật, cần có một cách tiếp cận toàn diện hơn. Quyền này không chỉ là đặc quyền của cá nhân mà còn phải gắn với trách nhiệm, đạo đức xã hội và sự tôn trọng pháp luật để đảm bảo môi trường thông tin lành mạnh, góp phần xây dựng một xã hội ổn định và phát triển bền vững.

    Trả lờiXóa
  3. Tự do ngôn luận là một quyền quan trọng, nhưng không đồng nghĩa với việc được phát ngôn tùy tiện mà không chịu trách nhiệm. Ở bất kỳ quốc gia nào, quyền này đều có những giới hạn nhất định để bảo vệ an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng và quyền của người khác.

    Bài viết của Ngô Anh Tuấn có cách tiếp cận mang nhiều cảm tính khi cho rằng quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam không được thực hiện "một cách triệt để". Tuy nhiên, thực tế là Hiến pháp và pháp luật Việt Nam luôn bảo đảm quyền tự do này, đồng thời đặt ra những quy định để ngăn chặn việc lợi dụng tự do ngôn luận nhằm xuyên tạc, kích động, hoặc gây hại đến tổ chức, cá nhân khác.

    Một xã hội văn minh là nơi mỗi người đều có quyền lên tiếng, nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật, tôn trọng sự thật và không làm tổn hại đến lợi ích chung. Thay vì nhìn nhận một cách phiến diện, cần có cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về quyền tự do và trách nhiệm đi kèm với nó.

    Trả lờiXóa